A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung
www.tudieu.de

21 Cảnh

Cảnh SắcSắc Cảnh (7)Sắc Thô (12)Sắc Pháp (28)
Cảnh Thinh
Cảnh Khí
Cảnh Vị
Cảnh XúcĐất
Lửa
Gió
Cảnh PhápSắc Thần kinh Nhãn
Sắc Thần kinh Nhĩ
Sắc Thần kinh Tỷ
Sắc Thần kinh Thiệt
Sắc Thần kinh Thân
Sắc Tế (16)
Tâm (121)Danh Pháp (106)
Tâm Sở (52)
Níp Bàn (1)
Chế định (13)

21 cảnh

  1. Cảnh sắc là các màu, có 48 tâm biết là: 2 tâm nhãn thức nhứt định, 2 tâm thông và 44 tâm dục giới ngoài ngũ song thức bất định.
  2. Cảnh thinh là các thứ tiếng. Có 48 tâm biết là: 2 tâm nhĩ thức nhứt định, 2 tâm thông và 44 tâm dục giới ngoài ngũ song thức bất định.
  3. Cảnh khí là các thứ mùi thơm, thúi v.v… Có 48 tâm biết là tỷ thức nhất định, 2 tâm thông và 44 tâm Dục giới, ngoài ngũ song thức bất định.
  4. Cảnh vị ngọt, mặn, chua, cay… có 48 tâm biết là 2 tâm thiệt thức nhất định, 2 tâm thông và 44 tâm dục giới, ngoài ngũ song thức bất định.
  5. Cảnh xúc là đất, lửa, gió đụng thân. Có 48 tâm biết là 2 tâm thân thức nhất định, 2 tâm thông và 44 tâm dục giới ngoài ngũ song thức bất định.
  6. Cảnh ngũ tức là nói chung 5 cảnh trên. Có 46 tâm biết là 3 ý giới nhất định, 2 tâm thông và 41 tâm dục giới ngoài ngũ song thức bất định.
  7. Cảnh pháp là tất cả pháp (trừ cảnh ngũ). Có 110 tâm biết là tâm thiền biết nhất định, còn tâm thông và 41 tâm dục giới ngoài ngũ song thức và ý giới đều bất định.
  8. Cảnh siêu lý là tâm, sở hữu, sắc pháp và Níp-bàn. Có 102 thứ tâm biết là tâm siêu thế, Thức vô biên, Phi tưởng phi phi tưởng, đại quả và 17 tâm vô nhân ngoài khai ý môn nhất định. Còn 12 tâm bất thiện, khai ý môn, đại thiện, đại tố và 2 tâm thông đều là bất định.
  9. Cảnh chế định là ngoài ra pháp siêu lý. Có 52 tâm biết là 15 tâm sắc giới, 3 tâm không vô biên, 3 tâm Vô sở hữu nhất định. Còn đại thiện, đại tố, bất thiện, khai ý môn và tâm thông đều là bất định.
  10. Cảnh Dục giới là sắc pháp, tâm dục giới và sở hữu hợp, có 56 tâm biết là 8 đại quả, 17 tâm vô nhân (trừ khai ý môn) đều là nhất định. Còn tâm thông, đại thiện, đại tố, bất thiện và khai ý môn là bất định.
  11. Cảnh đáo đại là tâm sắc giới, Vô sắc giới và sở hữu hợp, có 37 tâm biết là 3 tâm Thức vô biên, 3 tâm phi tưởng phi phi tưởng biết nhất định, còn tâm bất thiện, khai ý môn, đại thiện, đại tố và tâm thông đều là bất định.
  12. Cảnh Níp-bàn có 19 hoặc 51 tâm biết là 8 hoặc 40 tâm siêu thế biết nhất định. Còn khai ý môn, 4 đại thiện, 4 đại tố tương ưng và tâm thông đều bất định.
  13. Cảnh danh pháp là tâm, sở hữu và Níp-bàn có 57 hoặc 89 tâm biết là tâm siêu thế, Thức vô biên, Phi tưởng phi phi tưởng đều biết nhất định, còn tâm thông, 41 tâm dục giới ngoài ngũ song thức và 3 ý giới đều bất định.
  14. Cảnh sắc pháp là 28 sắc pháp. Có 56 tâm biết là ngũ song thức và 3 ý giới biết nhất định. Còn tâm thông và 41 tâm dục giới ngoài ngũ song thức và ý giới biết bất định.
  15. Cảnh quá khứ là tâm, sở hữu và sắc pháp đã diệt, có 49 tâm biết là 3 tâm thức vô biên, 3 tâm phi tưởng phi phi tưởng biết nhất định. Còn tâm thông và 41 tâm dục giới (trừ ngũ song thức và 3 ý giới) đều bất định.
  16. Cảnh hiện tại là tâm, sở hữu và sắc pháp đang còn, có 56 tâm biết là ngũ song thức, 3 ý giới nhất định, còn tâm thông, 41 tâm dục giới, ngoài ngũ song thức và ý giới đều bất định.
  17. Cảnh vị lai là tâm, sở hữu và sắc pháp sẽ sanh, có 43 tâm biết là tâm thông và 41 tâm dục giới (trừ ngũ song thức và 3 ý giới) đều bất định.
  18. Cảnh ngoại thời là Níp-bàn và chế định có 60 hoặc 92 tâm biết là tâm siêu thế, 15 tâm sắc giới, 3 tâm không vô biên, 3 tâm Vô sở hữu biết nhất định, còn 2 tâm thông, đại thiện, đại tố, khai ý môn và bất thiện đều bất định.
  19. Cảnh nội phần là tâm, sở hữu và sắc pháp sanh nội phần có 62 tâm biết là Thức vô biên, Phi tưởng phi phi tưởng biết nhất định, còn tâm dục giới và tâm thông đều biết bất định.
  20. Cảnh ngoại phần là tâm, sở hữu và sắc sanh ngoài thân tâm ta có 82 hoặc 114 tâm biết là siêu thế, không vô biên và 15 tâm sắc giới biết nhất định, còn tâm dục giới và tâm thông đều bất định.
  21. Cảnh nội phần và ngoại phần là nói chung 2 cảnh vừa kể có 56 tâm biết bất định là 54 tâm dục giới và tâm thông.

Thắng Pháp Tập Yếu - TL Tịnh Sự

Lục căn thu thúc giới (Indriyasaṃvarasīla)

Đức Thế Tôn đã dạy:

Idha bhikkhave bhikkhu
Cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti n’ānubyañjanaggāhī; Yatv’ādhikaraṇam-etaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati.
Sotena saddaṃ sutvā… Ghānena gandhaṃ ghāyitvā… Jivhāya rasaṃ sāyitvā… Kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā…
Manasā dhammaṃ viññāya na nimittaggāhī hoti n’ānubyañjanaggāhī; Yatv’ādhikaraṇam-etaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati manindriyaṃ, manindriye saṃvaraṃ āpajjati.”

“Ở đây, này các tỳ-kheo, vị tỳ-kheo
Khi mắt thấy sắc không nắm tướng chung, không nắm tướng riêng; Do đâu mà tham sân và các ác bất thiện pháp chi phối người sống không thu thúc nhãn căn thì vị ấy thực hành chế ngự nhân ấy, hộ trì nhãn căn, chịu thu thúc nhãn căn.
Khi tai nghe tiếng… Khi mũi ngửi mùi… Khi lưỡi nếm vị… Khi thân xúc chạm…
Khi ý nghĩ cảnh pháp không nắm tướng chung, không nắm tướng riêng; Do đâu mà tham sân và các ác bất thiện pháp chi phối người sống không thu thúc ý căn thì vị ấy thực hành chế ngự nhân ấy, hộ trì ý căn, chịu thu thúc ý căn.” (A. I, 113).

Văn kinh trên dạy về ý nghĩa giới thu thúc lục căn (indriyasaṃvara), sẽ giải thích từ ngữ trong văn kinh gom chung sự thu thúc sáu căn.

Trước hết, câu nói: “cakkhunā rūpaṃ disvā” = khi mắt thấy sắc. Mắt (cakkhu) là thần kinh nhãn, gọi là nhãn căn hay nhãn quyền (cakkhudriya). Cảnh sắc (rūpa) là đối tượng của mắt. Thấy (disvā) là mắt đối chiếu với cảnh sắc; Nên hiểu rằng mắt không thể thấy biết cảnh sắc nếu không có nhãn thức, nên khi nói mắt thấy cảnh sắc không nắm tướng chung v.v… hàm ý có sự phối hợp của căn, cảnh và thức.

Câu nói: “manasā dhammaṃ viññāya” = khi ý nghĩ cảnh pháp. Ý (mana) hay ý căn, ý quyền (manindriya) là tâm; Tâm suy nghĩ ở đây phải hiểu là ý thức giới đổng lực (manoviññāṇadhātu). Cảnh pháp (dhamma) là đối tượng của ý căn. Cảnh pháp bao gồm cả danh pháp và sắc pháp ngoài sắc cảnh giới hiện tại (sắc, thinh…). Suy nghĩ (viññāya) là tư duy vấn đề, khởi lên lộ tâm ý môn (manodvāracittavīthi).

Trong kinh văn nói: “na nimittaggāhī hoti, không nắm tướng chung”. Nghĩa là khi thấy cảnh sắc, khi nghe cảnh thinh... không có ấn tượng đây là hình dáng người nam, hình dáng người nữ, hay đây là tiếng của người nam, tiếng của người nữ.v..v... vị ấy dừng lại ở cái thấy, cái nghe... không nghĩ đến xa hơn để không bị cái ấn tượng ấy làm cho tâm ô nhiễm.

“N’ānubyañjanaggāhī, không nắm tướng riêng”. Nghĩa là không để tâm đến chi tiết cảnh sắc mà mắt thấy, như mái tóc, tay, chân, mắt, mũi, hoặc chi tiết cảnh thinh mà tai nghe, như tiếng cười, tiếng nói... Vị ấy chỉ biết là đang thấy, đang nghe...

Câu nói: “Yatv’ādhikaraṇam-etaṃ… abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, do đâu mà tham sân và các ác bất thiện pháp chi phối” nghĩa là tâm vị ấy bị phiền não tham sân và các ô nhiễm khác tấn công đe dọa bởi lý do không phòng hộ.

Câu nói: “cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ, người sống không thu thúc nhãn căn” nghĩa là vị tỳ-kheo khi thấy cảnh sắc không dùng cánh cửa chánh niệm để đóng con mắt lại, chính do nhân này, phiền não tấn công vị ấy. Cùng ý nghĩa này nên hiểu các câu còn lại: “người sống không thu thúc nhĩ căn… tỷ căn… thiệt căn… thân căn… ý căn”.

Câu nói: “tassa saṃvarāya paṭipajjati, vị ấy thực hành chế ngự nhân ấy” nghĩa là vị tu tập dùng chánh niệm chặn đứng nguyên nhân mà do đó tham sân và các ác bất thiện pháp chi phối người sống không thu thúc sáu căn.

Câu nói: “rakkhati cakkhundriyaṃ, hộ trì nhãn căn” tức là canh giữ con mắt khi tiếp xúc với cảnh sắc bằng sự tinh tấn, không cho sanh khởi ác bất thiện pháp chưa sanh. Hộ trì nhĩ căn, hộ trì tỷ căn, hộ trì thiệt căn, hộ trì thân căn, hộ trì ý căn cũng theo lý giải ấy.

Câu nói: “cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati, chịu thu thúc nhãn căn” là làm việc phòng hộ con mắt v.v…

Sự thật thì việc phòng hộ các căn nên biết là phòng hộ ở giai đoạn đổng lực tâm (javana) trong lộ nhãn môn, lộ nhĩ môn, lộ tỷ môn, lộ thiệt môn, lộ thân môn và lộ ý môn.

Như thế nào? Đối với thần kinh nhãn là vật chất vô tri, khi thần kinh nhãn đối chiếu với cảnh sắc thì tâm hữu phần (bhavaṅga) khởi lên và diệt ba lần, kế đến ý giới khai ngũ môn sanh rồi diệt, tuần tự nhãn thức làm việc thấy sanh rồi diệt, tâm tiếp thâu tiếp nhận cảnh sanh rồi diệt, tâm quan sát khảo sát cảnh sanh rồi diệt, tâm phân đoán xác định cảnh sanh rồi diệt, liền theo đó tâm đổng lực xử lý cảnh sanh bảy lần. Các giai đoạn tâm khai môn, nhãn thức, tiếp thâu, quan sát, phân đoán chỉ là tâm vô kí vô nhân (ahetuka-abyākatacitta) không có sự thu thúc hay không thu thúc; Chỉ ở chặng đổng lực có thể là thiện tâm hay bất thiện tâm, nên nếu là người ác giới thất niệm sẽ sanh khởi đổng lực bất thiện, chính đó gọi là không thu thúc; Nhưng nếu là người thiện giới có chánh niệm khi thấy sắc thì sẽ sanh khởi đổng lực thiện, chính đây gọi là thu thúc nhãn căn.

Thanh Tịnh Đạo - Yếu-Lược -TK Giác Giới


A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung

© www.tudieu.de