A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung
www.tudieu.de

Dục Cần Tâm Thẩm

TRƯỞNG
(adhipati)

4 pháp dẫn đầu cho các nghiệp thiện ác lớn nhỏ
4 NHƯ Ý TÚC
(iddhipāda)

4 pháp nền tảng cho Thiền Định và Đạo Quả
Tâm sở Dục trong
* 18 tâm Đổng lực Nhị nhân
(8 tâm tham, 2 tâm sân,
4 tâm Đại thiện ly trí, 4 tâm Đại tố ly trí)
* 66 tâm Đổng lực Tam nhân
(4 tâm Đại thiện hợp trí, 4 tâm Đại tố hợp trí,
9 tâm thiền Đáo đại, 9 tâm Tố Đáo đại
và 40 tâm Siêu thế)
DỤC
(chanda)
Tâm sở Dục trong 37 tâm thiện
* 8 tâm Đại thiện
* 9 tâm Đáo đại
* 20 tâm Đạo
Tâm sở Cần trong
* 18 Đổng lực Nhị nhân
* 66 tâm Đổng lực Tam nhân.
CẦN
(viriya)
Tâm sở Cần trong 37 tâm thiện
84 tâm Đổng lực Nhị & Tam nhân
* 18 Đổng lực Nhị nhân
* 66 tâm Đổng lực Tam nhân
TÂM
(cittā)
37 tâm thiện
Tâm sở Trí Tuệ trong 66 Đổng lực Tam nhân THẨM
(pannā)
Tâm sở Trí tuệ trong 37 tâm thiện

Tứ trưởng

Trưởng (adhipati) là lớn hay trội hơn pháp khác, tùy trường hợp.
Adhinānaṃ pati = adhipati: làm chủ hay lớn hơn pháp liên hệ với nó, gọi là trưởng.
Adhiko pati = adhipati: sức mạnh lớn lao làm chủ, cũng gọi là trưởng.

Tứ trưởng:
  1. dục trưởng (chandādhipati) sự mong mỏi lớn trội.
  2. cần trưởng (vīriyadhipati) sự siêng năng lướt tới mạnh lớn trội
  3. tâm trưởng (cittādhipati) lớn trội sức mạnh trong phần biết cảnh.
  4. thẩm trưởng (vīmaṅsādhipati) lớn trội sức mạnh trong sự hiểu biết thấu đáo.

Tứ như ý túc

Tứ như ý túc (iddhipāda) là nền tảng của sự vừa lòng thích tâm, để thành tựu, yếu tố để đạt đến thiền định đạo quả.
Như ý (iddhi) là sự thành tựu bằng cách đầy đủ.
Ijjhanaṃ = iddhi: nghĩa là thành tựu bằng cách đầy đủ, gọi là như ý, ám chỉ thiền, thông, đạo và quả.
Túc (pāda) là nhờ cậy, nương tựa.
Pajjati etenāti = pādo: là một người nào nhờ pháp ấy làm nhơn đưa đến giải thoát thì pháp ấy gọi là túc.
Nói chung lại là như ý túc (iddhipāda).
Iddhiyāpādo = iddhipādo: pháp làm nhơn cho đến thành tựu thiền, thông, đạo và quả, gọi là như ý túc.

Tứ như ý túc:
  1. dục như ý túc (chandiddhipāda): lòng mong mỏi, ước muốn, hoài bão, sự thích hợp làm nhơn đưa đến thiền, thông, đạo và quả.
  2. cần như ý túc (vīriyiddhipāda): sự cố gắng, sự nỗ lực, không nản chí, siêng năng tinh tấn lướt đến thiền, thông, đạo và quả.
  3. tâm như ý túc (cittiddhipāda): sự chú ý, quyết định, gắn bó với mục đích, sự vừa lòng cương quyết tiến hóa đến bậc đắc chứng hay là thành tựu do tâm mạnh.
  4. thẩm như ý túc (vīmaṅsiddhipāda): trí tuệ mạnh, sáng suốt, tỉnh giác, trạch pháp, hiểu cặn kẽ chính xác, làm nhơn đắc đạo, quả hay thiền hoặc thông.
Tứ như ý túc nên hiểu theo hai khía cạnh:
  1. khía cạnh thực chứng, là dục cần tâm thẩm khởi lên trong tâm đạo, thuộc về pháp siêu thế;
  2. khía cạnh tu tập, là dục cần tâm thẩm khởi lên trong tâm thiện dục giới, thuộc pháp đảng giác (Bodhipakkhiya).

Câu sanh trưởng duyên

Pháp năng duyên trong phần Câu sanh trưởng duyên: Pháp đang làm trưởng tức là 1 trong 4 pháp trưởng mà đang làm trưởng hay là một trong dục, cần, tâm, thẩm đang khi làm pháp trưởng, chỉ lấy trong phần tâm đổng lực nhị, tam nhân.

- Trưởng kiên cố nhứt định.
- Trưởng dục giới bất định.
- Ở Dục giới thì 1 pháp làm trưởng.
- Ở lộ kiên cố thì 4 pháp đồng làm trưởng.

Tại sao pháp trưởng hiệp tâm dục giới thì 4 pháp trưởng thay đổi nhau? Còn với tâm đổng lực kiên cố thì 4 pháp trưởng làm trưởng đồng thời nhau?

Xin thí dụ hiệp pháp và chỉ lý đo:

Trạng thí dụ trưởng trong dục giới như đời thượng cổ trong rừng có 4 gia đình ở chung, có vợ con của 4 trưởng gia đình là 31 người, tùy thời công việc và trường hợp trong 4 người chỉ được thay phiên nhau 1 người làm trưởng.

Hiệp pháp:
- 4 trưởng gia đình đây tỷ như tứ trưởng.
- Còn vợ con cả 31, tỷ như sở hữu.

Lý do:
- Khi gặp cảnh ưa rất mạnh thì “dục” làm trưởng, còn 3 trưởng kia không được làm trưởng.
- Khi sốt sắn bằng tâm này như là ráng làm việc v.v… thì lúc ấy có “cần” làm trưởng, 3 trưởng kia không đặng làm trưởng lúc này.
- Khi tâm sáng suốt rất mạnh đang hiểu pháp lý, biết sự thắc mắc sâu xa cao siêu thì là “trí” làm trưởng, 3 trưởng kia như thường.
- Còn khi biết cảnh thì hành động theo v.v… mặc dù đủ 4 trưởng, nhưng dục, cần, trí tầm thường, chỉ có sự bắt cảnh trội hơn, nên “tâm” đặng làm trưởng, 3 trưởng kia cũng như thường.

Tỷ dụ có nhóm khác, 4 gia đình ở chung, tính hết chừng 37, tổ chức bình quyền mỗi ông gia trưởng đồng thời đều đặng làm trưởng với tất cả trong nhóm và đồng thời cũng có nhờ nhau như là 4 ông mỗi đêm đồng canh 4 cửa.

Hiệp pháp: Bốn ông gia trưởng đồng quyền gác cửa là tỷ như tứ trưởng, người ở trong gia đình có 33, tỷ như sở hữu hợp chung.

Lý do: Tứ trưởng hiệp đổng lực kiên cố đều đồng làm trưởng và đồng nhờ. Vì sự ưa thích, ráng đến, bắt cảnh và soi sáng, 4 phương diện này đều phải đồng trội hơn tâm dục giới.

Pháp sở duyên trong phần Câu sanh trưởng duyên: sắc tâm trưởng, 52 hoặc 84 tâm đổng lực nhị, tam nhân và 51 sở hữu hợp (trừ pháp đang làm trưởng duyên).

Pháp địch duyên trong phần Câu sanh trưởng duyên: Những pháp ngoài ra pháp sở duyên đã kể tức là tâm quả đáo đại, 54 tâm Dục giới khi nào thứ nào không thành pháp sở duyên; sắc tâm phi trưởng, sắc nghiệp, sắc âm dương, sắc vật thực và 43 sở hữu hợp, với 37 tâm vô trưởng và trí khi không làm trưởng.

Tâm sở Dục (chanda)

Khi phiên dịch Tam tạng Pali thì Kāma (Tham ái) và Chanda (Mong muốn) thường được một số dịch giả dịch sang tiếng Việt bởi cùng một từ là Dục, do vậy đã gây nhiều hiểu biết sai lầm lời Phật dạy, cho rằng hễ có Dục là bất thiện.

Dục (chanda) khác với phiền não dục (kāmakilesa). Dục (chanda) là sự mong muốn hành động, thúc dục tâm tìm cảnh. Tâm sở Dục có tướng trạng là muốn hành động (kattukāmatālakkhaṇo), có nhiệm vụ là tìm kiếm cảnh (ārammaṇapariyesanaraso), có biểu hiện là nhu cầu một đối tượng (ārammaṇena atthikatāpaccupaṭṭhāno), nhân gần là cảnh (ārammaṇapadaṭṭhāna). Tâm sở Dục chỉ có mặt trong 101 tâm (trừ 2 tâm si và 18 tâm vô nhân).

Các loại Dục:

Theo Từ điển Pali - Việt của ngài Bửu Chơn thì:

- Chanda: [m] Sự ước muốn, ước nguyện, động lực thúc đẩy.

- Kāma: [m] Sự thỏa thích, tình dục, sự thưởng thức, vật vui thích trần thế.

Trong Tâm sở vấn đáp có giải thích:

Tâm sở Tham luôn luôn có tính bất thiện, mang tính chất đạo đức xấu.

Tâm sở Chanda - Dục (mong muốn) không mang tính chất đạo đức, chỉ là sự mong ước suông, nhưng kết hợp theo cảnh có thể trở thành hoặc bất thiện, hoặc thiện, hoặc không thiện cũng không bất thiện.

Như vậy Chanda - Dục (mong muốn) có 3 loại là:

  1. Kāmacchanda (Dục dục): là sự tầm cầu năm trần cảnh (sắc, thinh, hương, vị, xúc) tốt đẹp hay những pháp khả ái trong Dục giới như: vua, quan đại thần, chư thiên… Dục dục (hay tham dục) chính là một trong năm pháp triền cái (Nīvaraṇa). Đây là một loại “mong ước xấu”, đưa đến kết quả tai hại. Dục dục là bất thiện.

  2. Dhammacchanda (Pháp dục): là “mong cầu” đạt được pháp thượng nhân như thiền định, đạo quả siêu thế, Niết-bàn. Chính Pháp dục là nền tảng cho sự thành tựu những thiện pháp, đồng thời làm tăng trưởng những thiện pháp ấy cho đến khi viên mãn. Chư vị Bồ-tát dù là Bồ-tát Thinh văn, Bồ-tát Độc giác hay Bồ-tát Chánh Đẳng Giác đều xuất phát từ Pháp dục này. Chính Pháp dục này khiến Thái tử Siddhattha lìa bỏ dục lạc thế tục, xuất gia để tìm đạo thoát khổ. Pháp dục là thiện.

  3. Kattukamyatā chanda (Tác dục): là sự “ý muốn làm”. Đây là sự “mong mỏi” của vị A-la-hán đối với chúng sinh, vị A-la-hán “mong” chúng sinh thoát khỏi khổ, nên các ngài có “ý muốn trợ giúp” chúng sinh bằng cách giảng pháp, hoặc tạo điều kiện cho chúng sinh thoát khỏi khổ do sự cúng dường đến hay đảnh lễ các ngài. Những việc làm của các vị Thánh A-la-hán không xuất phát từ “mong cầu hưởng thụ” cũng không xuất phát từ “mong cầu được thắng đạt” mà chỉ là “ý muốn làm”. Tác dục là không thiện cũng không bất thiện.
Đức Phật đã khẳng định: “Tất cả pháp lấy Dục - Chanda (ý muốn) làm căn bản. Tất cả pháp lấy Tác ý - Manasikāra làm sinh khởi (Kinh Tăng chi bộ, chương Mười pháp, phẩm Tâm của mình - 58). Điều này có nghĩa là trong Tam giới, các pháp đều có những mong cầu an lạc hạnh phúc thế gian do Dục dục làm nền; hoặc có những mong cầu các pháp Thượng nhân do Pháp dục làm nền; hoặc có những việc làm của vị Thánh vô lậu là do Tác dục làm nền.

Tâm sở Cần (viriya)

Giải theo lý pháp thực tính thuộc tánh của tâm thì Cần là tính năng động trong việc biết cảnh. Tâm sở Cần có tướng trạng là năng nổ (ussahanalakkhaṇaṃ), có nhiệm vụ là củng cố pháp câu sanh (sahajātānaṃ upatthambhanarasaṃ), có biểu hiện là sự không chìm lắng (asaṃsīdanabhāvapaccupaṭṭhānaṃ), nhân gần cho Cần sanh là điều kích động (saṃvegapadaṭṭhānaṃ). Tâm sở Cần chỉ có mặt trong 105 tâm trừ 15 tâm quả vô nhân và 1 tâm khai ngũ môn.

Tâm sở Tuệ quyền (paññindriya)

Tâm sở Trí tuệ, là căn vô si (amohamūla). Trí tuệ là sự hiểu biết, sự sáng suốt của tâm. Có tướng trạng là sự hiểu biết đúng đắn (yathābhūtapaṭivedhalakkhaṇaṃ), có nhiệm vụ là làm cho đối tượng sáng tỏ (visayobhāsanarasaṃ), có biểu hiện là không si ám (asammohapaccupaṭṭhānaṃ), nhân gần là khéo tác ý (yonisomanasikārapadaṭṭhānaṃ). Tâm sở Tuệ quyền có mặt trong 79 tâm tịnh hảo là 12 tâm dục giới tương ưng trí, 27 tâm đáo đại và 40 tâm siêu thế, phối hợp nhất định.


A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung

© www.tudieu.de