A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung
www.tudieu.de

Lộ Hiện Thông
(abhiññāppanāvīthi)

Lộ2Lộ thông thiện và lộ thông tố
Cái6khai ý, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, tâm thông
Thứ7khai ý, 2 đại thiện thọ xả hợp trí, 2 đại tố thọ xả hợp trí, 2 tâm thông
Chặng2khai ý, đổng lực (gồm đổng lực dục giới và đổng lực đáo đại)
Người5Người Tam nhân và 4 Người Quả
Cõi2231 trừ 4 đọa, 1 Vô tưởng và 4 Vô Sắc

Trước khi hóa thông: Vị thiền giả muốn hóa hiện thần lực thì trước hết phải nhập thiền cơ (padakajhāna) bằng cách chú nguyện rằng: "Ngũ thiền sắc giới nào tôi đã chứng đạt được, xin hãy khởi lên nơi tôi", rồi vị ấy chú niệm vào kasiṇa (không dùng án xứ khác được). Quy trình xuất hiện của ngũ thiền như sau: rúng động, dứt dòng, khai ý môn, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc rồi tâm Ngũ thiền sắc giới khởi hiện liên tục, hết cái này đến cái khác, suốt thời gian 1 sao hay 1 giây (vinādī, nādī). Đây là Thiền cơ vậy.



Khi xuất khỏi Ngũ thiền thì liền chú nguyện điều mình muốn hóa hiện, như muốn phi hành trên không chẳng hạn, thì chú nguyện rằng: "Xin cho cơ thể tôi bay bổng trên không" hoặc nếu muốn nhìn thấy cõi địa ngục thì chú nguyện: "Xin cho tôi thấy được nếp sinh hoạt dưới địa ngục"… nói chung muốn làm cái gì thì ước nguyện cái đó. Tâm lộ diễn tiến trong lúc đang ước nguyện được gọi là parikammavithī, quy trình của nó như sau: rúng động, dứt dòng, khai ý môn, 7 đổng lực rồi trở lại hữu phần chủ quan, cứ theo khuôn mẫu này mà parikammavithī tái hiện vô số lần.



Sau khi ước nguyện xong, tức là lúc các tâm lộ parikammavithī đã chấm dứt thì vị thiền giả lại nhập thiền cơ padakajhāna một lần nữa, diễn biến của tâm lộ thiền cơ này cũng giống như ở tâm lộ thiền cơ thứ nhất.



Khi vừa xuất khỏi Thiền cơ bận nhì thì tâm lộ hóa thông xuất thiện (abhiññāvithī) đồng thời những gì thiền giả ước nguyện khi nãy bây giờ đều thành tựu. Diễn tiến của tâm lộ hóa thông như sau: rúng động, dứt dòng, khai ý môn, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, 1 tâm thông (chỉ 1 sát na thôi) rồi hữu phần tái khởi.



Hầu hết những người đã đắc tối thiểu là Ngũ thiền Sắc giới đều có khả năng thực hiện các loại Thần thông căn bản. Nên nhớ rằng nói đến thần thông thì không cần đến trình độ Vô sắc, nên một người dầu có chứng 4 tầng thiền Vô sắc thì khi muốn hoá hiện Thần thông cũng phải sử dụng Ngũ thiền Sắc giới. Đại khái có 5 loại Thần thông hay Thắng trí:
  1. Biến Hoá thông (iddhividhañāṇa), tức khả năng đi trên nước, trên không hay biến hình đổi dạng…
  2. Thiên Nhãn Thông (dibbacakkhuñāṇa) gồm có hai loại:
    1. Khả năng thấy được những hình ảnh vi tế hay xa khuất mà mắt thường không thấy được.
    2. Khả năng thấy được hạnh nghiệp nào đã dẫn đưa các loài chúng sinh kẻ siêu người đọa với những hoàn cảnh khác nhau. Thiên Nhãn Thông loại này còn được gọi bằng thuật ngữ Sanh Tử Minh (cutūpapātañāṇavijjā).
  3. Thiên Nhĩ Thông (dibbasotañāṇa) tức khả năng nghe được những âm thanh mà thính giác của người thường không thể nghe được.
  4. Tha Tâm Thông (paracittavijānanañāṇa hay cetopariyañāṇa) tức khả năng đọc hiểu được suy nghĩ của người khác rõ ràng như biết bản thân mình đang nghĩ gì.
  5. Túc Mạng Thông (pubbenivāsānussatiñāṇa) tức khả năng nhớ được những kiếp sống quá khứ của mình và người khác. Loại thiên nhãn thứ hai đã nói ở trên là khả năng thấy được Nhân sanh tử và Túc Mạng Thông này là khả năng thấy được Quả sanh tử.
Kể chung là vậy nhưng khả năng thần thông của mỗi người không thể nào giống nhau. Trình độ cao thấp, ít nhiều là tùy thuộc vào túc duyên quá khứ đã tu tập dày mỏng ra sao.

Về cách hoá hiện Thần thông thì trước hết đương sự nhập định Ngũ thiền Sắc giới bằng đề mục cần thiết. Như muốn đi trên mặt nước vị ấy nhập vào đề mục Đất.

Khi lộ nhập thiền kết thúc, Hữu Phần xuất hiện thì vị ấy lập nguyện: Hãy có một con đường băng qua hồ nước này. Với người đã đắc thiền lời nguyện này được thực hiện bằng một niềm tin bất động. Lúc đó ấn tượng về con đường kia hiện ra qua Ý môn để làm xuất hiện 2 sátna Rúng Động Dứt Dòng. Tiếp theo sau là Khai ý môn và rồi là một trong hai tâm Đại thiện (hoặc Đại tố) hợp trí thọ xả sẽ xuất hiện 4 lần để làm nhiệm vụ Cận Định là Chuẩn Bị, Cận Hành, Thuận Thứ và Chuyển Tộc.

Ngay sau sát-na Chuyển Tộc tâm Thiện (hoặc Tố) Ngũ thiền Sắc giới xuất hiện trong một sát-na. Lúc này tâm Thiện (hoặc Tố) Ngũ thiền Sắc giới được gọi là tâm Thắng trí hay tâm Thông. Sau đó là Hữu Phần xuất hiện và đương sự coi như đã xuất thiền. Ngay lúc này người hóa thông đã có thể bước đi trên mặt hồ.

Với các thứ thần thông khác cũng theo cách này mà hiểu. Kể trên ngôn ngữ thì dài dòng như vậy, nhưng trong thực tế, thời gian thực hiện một thần thông chỉ là nháy mắt. Đó là lý do tại sao Đức Phật gọi thần thông là iddhi (ước nguyện hay ý muốn, từ động từ Ijjhati là mong muốn).

Triết Học A Tỳ Đàm

Kinh Sa Môn Quả

(trích dẫn)
Kinh Sa-môn quả (Trường Bộ)Sāmaññaphalasutta (Dīghanikāya)
Thần Thông Iddhividhañāṇaṃ
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte iddhividhāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti. So anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhoti:
một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; ekopi hutvā bahudhā hoti, bahudhāpi hutvā eko hoti;
hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; āvibhāvaṃ tirobhāvaṃ tirokuṭṭaṃ tiropākāraṃ tiropabbataṃ asajjamāno gacchati seyyathāpi ākāse.
độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước không chìm như trên đất liền; Pathaviyāpi ummujjanimujjaṃ karoti seyyathāpi udake. Udakepi abhijjamāne gacchati seyyathāpi pathaviyā.
ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; Ākāsepi pallaṅkena kamati seyyathāpi pakkhī sakuṇo.
với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; Imepi candimasūriye evaṃmahiddhike evaṃmahānubhāve pāṇinā parāmasati parimajjati.
có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ vatteti.
Thiên Nhĩ Thông Dibbasotañāṇa
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến thiên nhĩ thông. So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte dibbāya sotadhātuyā cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti.
Tỷ-kheo với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. So dibbāya sotadhātuyā visuddhāya atikkantamānusikāya ubho sadde suṇāti dibbe ca mānuse ca ye dūre santike ca.
Tha Tâm Thông Cetopariyañāṇa
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm thông. Tỷ-kheo sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của mình, vị ấy biết được như sau: So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte cetopariyañāṇāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti. So parasattānaṃ parapuggalānaṃ cetasā ceto paricca pajānāti –
Tâm có tham, biết là tâm có tham.
Tâm không có tham, biết là tâm không có tham.
sarāgaṃ vā cittaṃ ‘sarāgaṃ citta’nti pajānāti,
vītarāgaṃ vā cittaṃ ‘vītarāgaṃ citta’nti pajānāti,
Tâm có sân, biết là tâm có sân.
Tâm không có sân, biết là tâm không có sân.
sadosaṃ vā cittaṃ ‘sadosaṃ citta’nti pajānāti,
vītadosaṃ vā cittaṃ ‘vītadosaṃ citta’nti pajānāti,
Tâm có si, biết là tâm có si.
Tâm không có si, biết là tâm không có si.
samohaṃ vā cittaṃ ‘samohaṃ citta’nti pajānāti,
vītamohaṃ vā cittaṃ ‘vītamohaṃ citta’nti pajānāti,
Tâm hôn trầm, biết là tâm hôn trầm.
Tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn.
saṅkhittaṃ vā cittaṃ ‘saṅkhittaṃ citta’nti pajānāti,
vikkhittaṃ vā cittaṃ ‘vikkhittaṃ citta’nti pajānāti,
Ðại hành tâm, biết là đại hành tâm.
Không phải đại hành tâm, biết không phải là đại hành tâm.
mahaggataṃ vā cittaṃ ‘mahaggataṃ citta’nti pajānāti,
amahaggataṃ vā cittaṃ ‘amahaggataṃ citta’nti pajānāti,
Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng,
Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng.
sauttaraṃ vā cittaṃ ‘sauttaraṃ citta’nti pajānāti,
anuttaraṃ vā cittaṃ ‘anuttaraṃ citta’nti pajānāti,
Tâm thiền định, biết là tâm thiền định.
Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền định.
samāhitaṃ vā cittaṃ ‘samāhitaṃ citta’nti pajānāti,
asamāhitaṃ vā cittaṃ ‘asamāhitaṃ citta’nti pajānāti ,
Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát.
Tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát.
vimuttaṃ vā cittaṃ ‘vimuttaṃ citta’nti pajānāti,
avimuttaṃ vā cittaṃ ‘avimuttaṃ citta’nti pajānāti.
Túc Mạng Thông Pubbenivāsānussatiñāṇa
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti.
Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. So anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati, seyyathidaṃ – ekampi jātiṃ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṃsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi jātisatasahassampi anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe,
Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". ‘amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṃ; tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti.
Như vậy Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati.
Thiên Nhãn Thông Dibbacakkhuñāṇa
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí huệ về sanh tử của chúng sanh. So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutūpapātañāṇāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti.
Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng: So dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate, yathākammūpage satte pajānāti –
"Này các Hiền giả, những Tôn giả này làm những điều ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. ‘ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā.
Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā.
Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā’ti.
Như vậy vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate, yathākammūpage satte pajānāti.
Lậu Tận Thông Āsavakkhayañāṇa
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti.
Vị ấy biết như thật "đây là khổ", biết như thật "đây là nguyên nhân của khổ", So idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ pajānāti , ayaṃ dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti,
biết như thật "đây là khổ diệt", ayaṃ dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ pajānāti,
biết như thật "đây là con đường đưa đến khổ diệt", ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti.
biết như thật "đây là những lậu hoặc", biết như thật "đây là nguyên nhân của lậu hoặc", Ime āsavāti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ āsavasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti,
biết như thật "đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật "đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". ayaṃ āsavanirodhoti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti.
Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đã giải thoát. Tassa evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ vimuccati, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccati, avijjāsavāpi cittaṃ vimuccati,
Vị ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa.‘vimuttasmiṃ vimuttami’ti ñāṇaṃ hoti, ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.


A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung

© www.tudieu.de