Sơ Lược về Duyên Khởi ← | 1. Vô minh duyên hành | → 2. Hành duyên thức |
---|
1. Vô minh duyên hành
Hành (saṅkhāra) nghĩa là nghiệp hành (kamma saṅkhāra) hay 29 tư (cetanā) phối hợp với 17 tâm thiện hiệp thế (lokiyakusala citta) và 12 tâm bất thiện (akusalacitta). Chỉ cho phúc hành (puññābhisaṅkhāra), phi phúc hành (apuññābhisaṅkhāra) và bất động hành (aneñjābhisaṅkhāra).
Tóm lại, hành (saṅkhāra) đại diện cho 29 loại nghiệp (kamma) phối hợp với 17 tâm thiện hiệp thế (lokiya kusala citta) và 12 tâm bất thiện (akusala cittta). Vô minh (avijjā) duyên cho hành (saṅkhāra) sanh ra sao? Vì không biết về nghiệp và quả của nghiệp, chúng sanh phạm vào những hành vi bất thiện vì lợi ích bản thân nhất thời. Do những suy nghĩ ảo tưởng về dục lạc, thiền lạc là những dạng hạnh phúc thật sự, chúng sanh thực hiện xả thí (dāna), giữ giới (sīla) và tu tiến (bhāvana) để đạt đến những hạnh phúc ấy trong kiếp hiện tại hay những kiếp vị lai. Dù cho chúng sanh tích lũy cả hai nghiệp hành (kamma saṅkhāra) thiện và bất thiện thì đều là quả của sự không biết hay ảo tưởng, tức vô minh (avijjā). Có một sự giải thích luân phiên như vầy: Khi dòng danh pháp của chúng sanh hữu tưởng bị nhiễm đầy vô minh, tư (cetanā) của vị ấy làm sản sanh nghiệp (kamma) với mãnh lực tạo ra quả trong những kiếp sống vị lai. Do đó, vô minh được xem là duyên chính cho nghiệp hành (kamma saṅkhāra). Vô minh thì vượt trội trong những nghiệp bất thiện, trong khi vô minh là pháp tiềm thùy (avijjānusaya) trong những nghiệp thiện hiệp thế. Do đó, cả hai nghiệp hành (kamma saṅkhāra) thiện hiệp thế và bất thiện sanh do nương vào vô minh (avijjā). Duyên HệVô minh duyên Phúc hành đặng 2 duyên.
Vô minh duyên phúc hành sắc giới chỉ đặng 1 duyên là Thường cận (đại) y duyên (Pakatūpanissayapaccayo) như là có người tâm bất thiện thường sanh ra làm những điều chẳng tốt, rồi gặp nhiều trường hợp đâm ra quá chán nản, tìm tu pháp chỉ (samatha) cho đến đắc thiền là do nhờ mãnh lực bất thiện đã từng thường sanh hằng có sở hữu si, cho nên đặng gọi là vô minh duyên phúc hành sắc giới bằng Thường cận (đại) y duyên. Hay là ham thần thông (abhiññā), ham sanh về cõi Sắc giới cho đến hằng ưa thích những ân đức thiền nhiều lần thành ra rất mạnh, thúc đẩy cho sự cố gắng tu theo những đề mục đắc thiền sắc giới thành tựu. Còn người đang ở cõi Sắc giới cũng vì ưa những cõi Sắc giới nên trau dồi thiền sắc giới. Đây là sở hữu tư (cetanā) hiệp với tâm thiện sắc giới sanh đặng do mãnh lực Thường cận (đại) y duyên của sở hữu si. Vô minh giúp hành đại thiện bằng Cảnh duyên (Ārammaṇāpaccayo) hay Cảnh trưởng duyên (Ārammanādhipatipaccayo) như là đại thiện tư tưởng đến tâm bất thiện cho là không tốt... hoặc nghĩ rằng biết tham như biết mặt đạo tặc vững lòng thành Cảnh trưởng (Cảnh cận y: Ārammanūpanissayapaccayo). Còn sự mong mỏi ưa thích ỷ lại phước... bằng tâm bất thiện do mãnh lực ấy mà đại thiện và thiện sắc giới phát sanh đó là vô minh trợ Phúc hành bằng Cận y duyên (Upanissayapaccayo) hay Thường cận y duyên (Pakatūpanissayapaccayo). Vô minh duyên phi phúc hành Là sở hữu si trợ cho sở hữu tư (cetanā) hiệp tâm bất thiện, tức là sở hữu tư (cetanā) hiệp với tâm bất thiện đều có sở hữu si đi chung luôn cả 12 tâm bất thiện và sở hữu tư (cetanā) cũng biết đặng sở hữu si hiệp tâm bất thiện đã diệt hoặc sẽ sanh không đồng một lộ. Cho nên cách trợ đặng 16 duyên kể sau:
Vô minh duyên bất động hành, nghĩa lý cũng như vô minh duyên phúc hành sắc giới, có 1 duyên:
|
Sơ Lược về Duyên Khởi ← | 1. Vô minh duyên hành | → 2. Hành duyên thức |
---|