4 Thủ ← | 6 Triền Cái | → 7 Tiềm Miên |
---|
6 Triền Cái (nīvāraṇa) (trích Triết học A Tỳ Đàm) 6 TriềnTrong quan điểm truyền thống thì Triền Cái được kể có 5 khi nói đến trường hợp ngăn chận thiền định (samādhi). Nhưng ở đây kể thêm một triền cái nữa là Vô Minh để nhắm đến ý nghĩa ngăn chận Tuệ quán tức trí tuệ giải thoát.
Hôn Thụy được kể chung vì chúng có 3 điểm giống nhau:
Trạo Hối được kể chung vì có 3 điểm đồng:
Để hiểu thêm về các Triền Cái xin vào Tăng Chi Bộ Kinh đọc lại 5 ví dụ của Phật về 5 pháp Cái. (Tâm có Dục Cái như nước bị pha màu, tâm có Sân Cái như nước bị sôi, tâm có Hôn Thụy như nước bị rong rêu, tâm có Trạo Hối như nước bị gió thổi, tâm có Hoài Nghi như nước bị bùn sình, vẩn đục). (trích Vô Tỷ Pháp Tập Yếu - TL Tịnh Sự - tb.2019) Sáu Cái (nīvaraṇa)Cha nīvaraṇāni: Kāmacchadanīvaraṇaṁ vyāpādānīvaraṇaṁ thīnamiddhanīvaraṇaṁ uddhacca-kukkuccanīvaraṇaṁ vicikicchānīvaraṇaṁ avijjānīvaraṇaṁ.Sáu pháp cái là: dục dục cái (kāmacchandanīvaraṇa), sân độc cái (vyāpādanīvaraṇa), hôn-thùy cái (thīnamiddhanīvaraṇa), điệu-hối cái (uddhaccakukkuccanīvaraṇa), hoài nghi cái (vicikicchānīvaraṇa) và vô minh cái (avijjānīvaraṇa). Giải: Pháp cái (nīvaraṇa) nghĩa là ‘ngăn che, cản trở, trở ngại, ngăn cản, ngăn chặn, ngăn ngại hay chướng ngại’. Có Pāḷi chú giải như vầy: Jhānādikaṃ nivārentīti = nīvaraṇāni: Cấm ngăn sự tốt đẹp không cho sanh ra; nhứt là thiền v.v… là sáu pháp cái. Cái (nīvaraṇa) là ngăn trở và ngăn cản sự sinh khởi của những ý thiện và nghiệp thiện như thiền (jhāna) và đạo (magga). Cho nên chúng ngăn che con đường đến thiên giới và hạnh phúc Níp-bàn. Đặc biệt năm pháp cái (nīvaraṇa) đầu tiên làm mù quáng cái thấy của ý và ngăn che những thiện hạnh của chúng ta. Chúng ta luôn phải vật lộn với chúng bất cứ khi nào chúng ta muốn thực hiện vài nghiệp thiện dù đó là tụng kinh hay tu thiền. Chúng chen vào ngăn che, ngay cả khi chúng ta thực hành những thiện hạnh, làm cho những tâm thiện và những nghiệp thiện cũng không thể sanh. Năm pháp cái đầu tiên là sự trở ngại chủ yếu đến sự chứng thiền, trong khi pháp cái thứ sáu, vô minh cái (avijjānīvaraṇa), là sự trở ngại chủ yếu cho tuệ sanh. Sự hiện diện của chúng làm cho chúng ta không thể vươn tới cận định (upacāra samādhi) và an chỉ định hay an chỉ định (appanā samādhi) và không thể phân biệt rõ pháp thực tính hay siêu lý.
Lưu ý: (1) Cả hai ‘hôn trầm và thùy miên’, ‘điệu cử và hối hận’ được nhóm lại với nhau vì phận sự (kicca), nhân (hetu) và pháp đối lập của chúng thì như nhau. Phận sự của ‘hôn trầm’ và ‘thùy miên’ là băn khoăn, lo lắng, không vững vàng, là tính thụ động của danh pháp, là nguyên nhân của sự biếng nhác. Chúng là pháp đối lập với cần (vīriya). Phận sự của ‘điệu cử’ và ‘hối hận’ là không an tâm, yên lòng, băn khoăn, lo lắng; nguyên nhân của chúng là gây phiền toái về việc mất mát tài sản, v.v… và chúng là pháp đối lập với sự an tịnh. (2) Sự so sánh thú vị được Đức Phật nêu trong Tăng Chi bộ kinh (Aṅguttara Nikāya), dục dục cái (kāmacchandanīvaraṇa) được so sánh với nước hòa trộn với nhiều màu, sân độc cái ví như nước sôi, hôn trầm-thùy miên cái ví như nước bị rêu phủ kín, điệu-hối cái ví như gió khuấy động mặt nước làm gợn sóng, hoài nghi cái ví như nước đục và bùn lầy. Cũng như trong nước ấy chúng sanh không thể nhận thấy bóng của chính mình, với sự hiện diện của năm danh pháp cái, chúng sanh không thể thấy rõ lợi ích của tự thân, của tha nhân, hoặc của cả hai.
|
4 Thủ ← | ← Bất Thiện Nhiếp | → 7 Tiềm Miên |