Giảng Về Kiếp - Kappa KathāHòa thượng GIỚI NGHIÊM THITASĪLO(www.budsas.org) | |
2 : KAPPAKhoảng thời gian trụ rất lâu gọi là kappa (kiếp), là tên của tuổi thọ trái đất, hoặc là tên tuổi thọ cõi không gian (okāsa loka). Tiếng gọi là không gian ấy trong bộ kinh Visuddhimagga (Thanh-Tịnh-Đạo) giải rằng: đặc chỉ về chỗ ở của chúng sanh, hằng có sự tiêu hại là thường. Trong cõi không gian đó có nhiều cõi sa-bà thế giới (cakkavāla). Cõi sa-bà ta đang ở nầy có bề ngang và bề dọc đến một triệu hai ức ba ngàn bốn trăm năm chục do tuần (1.203.450 do tuần). Bề chu vi đến ba triệu sáu ức một vạn ba trăm năm chục do tuần (3.610.350 do tuần). Bề dài trái đất trong sa-bà thế giới nầy chừng hai ức bốn vạn do tuần (240.000 do tuần). - Nước nâng đỡ trái đất dày đến bốn ức tám vạn do tuần (480.000 do tuần). - Có quả núi gọi là Tu-Di sơn (Sineru), chân ăn sâu xuống trong biển đến tám muôn bốn ngàn do tuần (84.000 do tuần) chót núi cao lên cũng tám vạn bốn ngàn do tuần giống nhau. - Kế cận núi Tu-Di sơn ấy lại có Thất-Trùng sơn (Satta Paribhaṇda) nữa là: 1. Núi Yugandhara cao 42.000 do tuần. 2. Núi Isindhara cao 21.000 do tuần. 3. Núi Karavīka cao 10.500 do tuần. 4. Núi Sudassana cao 5.250 do tuần. 5. Núi Nemindhara cao 2.625 do tuần. 6. Núi Vinataka cao 1.312 do tuần. 7. Núi Assakaṇṇa cao 656 do tuần. Cả Thất-Trùng sơn nầy toàn là núi kết thành bằng bảo vật (ratana), nhất là vàng, bạc v.v... có chân ăn sâu vào dưới biển cũng đồng như trên vậy, ở bọc quanh núi Tu-Di, cách khoảng xa nhau cũng bằng với bề cao của các núi ấy. Nơi khoảng cách những núi ấy toàn là biển gọi tên là Sīdantara. Cả bảy lớp núi nầy là nơi trú của Tứ-Đại Thiên-Vương: 1. Dhata Raṭṭha. 2. Virūpakkha 3. Virullahaka. 4. Kuvera. ![]() Và là nơi trú, nơi đi lại của chư thiên, và dạ-xoa cả thảy. Chẳng phải trình độ của người thường đi đến và xem thấy hoặc nghĩ ngợi được đâu, chỉ có Đức Phật và các vị A-la-hán mới đi đến và xem thấy biết rõ đầy đủ. Núi lớn Sineru, có ba hòn núi lớn dở phía dưới, gọi là núi Trayakuṭa. Phía trên đỉnh núi Tu-Di sơn là địa phận của đức vua trời Đế-Thích (Sakka), gọi là cõi trời Đạo-Lợi, kế phía trên là cõi Dạ-Ma, Đâu-Suất-Đà, Hóa-Lạc, Tha-Hóa-Tự-Tại. Tất cả các cõi nầy là nơi trú của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của loài người đâu. Kế phía trên các cõi trời nữa là cõi của chư Phạm-Thiên Hữu-sắc và Phạm-Thiên Vô-sắc. Phạm-Thiên Hữu sắc có 16 tuần là: 1. Phạm-Chúng thiên. 2. Phạm-Phụ thiên. 3. Đại-Phạm. 4. Thiếu-Quan thiên. 5. Vô-Lượng quang thiên. 6. Quang-Âm thiên. 7. Thiếu-Tịnh thiên. 8. Vô-Lượng tịnh thiên. 9. Biến-tịnh thiên. 10. Quản-quả thiên. 11. Vô-Tưởng thiên. 12. Vô-Phiền thiên. 13. Vô-Nhiệt thiên. 14. Thiện-Hiện thiên. 15. Thiện-Kiến thiên. 16. Vô-thiểu thiên. Phạm-thiên vô sắc có bốn tầng là: 1. Không vô biên xứ thiên. 2. Thức vô biên xứ thiên. 3. Vô-sở hữu xứ thiên. 4. Phi-Tưởng Phi-Phi tưởng thiên. Cõi trời Phi-Tưởng phi phi tưởng xứ này là nơi cao nhất hơn cả của Tam-Giới, trong cõi hư không thế giới khoảng cách xa cõi cuối cùng Tam-Giới ấy xuống đến cõi người nầy không thể đếm được bao nhiêu do tuần cả. Trong bộ kinh Loka Dīpaka có giảng giải so sánh rằng: Sabba bhavaggo thatvaca kutāgarasamāsalā pātitā tīhi vassedhivimā māsehi ca atthahi rattindivehi ... Nghĩa là: Chư thiên có thần lực nhiều, ở trong cõi cuối cùng (của Tam-Giới) thả một tảng đá to bằng cái nhà cho rơi xuống tới cõi người mất một thời gian rất lâu chừng ba năm hai tháng tám ngày và 14 phút mới đến cõi người, cục đá ấy chỉ là chạm bởi gió, mà mòn hết chỉ còn dư lại bằng trái cam thôi. Kế sau đây chỉ giảng giải theo bộ kinh Visuddhi magga như vầy: Theo sự chỉ dẫn rằng: Núi Tu-Di (Sineru) ở giữa cõi Sa-bà, núi Thất-Trùng sơn bao quanh núi Sineru, phía bên ngoài núi Thất-Trùng sơn ấy, toàn là nước cả thảy, trong bốn hướng có Tứ-Đại châu cách xa hẳn với núi ấy. | |
| LỜI TỰA ← | Kappa Kathā | → TỨ ĐẠI CHÂU |