A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung
www.tudieu.de

Giảng Về Kiếp - Kappa Kathā

Hòa thượng GIỚI NGHIÊM THITASĪLO
(www.budsas.org)
  1. LỜI TỰA
  2. KAPPA
  3. TỨ ĐẠI CHÂU
  4. KHETTA
  5. KIẾP THÀNH
  6. THẬP ÁC
  7. PHỤ BẢN

5 : KIẾP THÀNH

KIẾP THÀNH

Lẽ thường pháp tạo tác thế gian, (Saṅkhāraloka), hễ một khi cõi trước hoại rồi thì pháp tạo tác thế-gian phải cấu tạo cõi mới lên nữa. Sự cấu tạo thế giới mới, trước nhứt trời mưa đầy cả một ức koti cõi thế, khi đầu có từ nhiểu nước nhỏ như mù sương, lâu lâu mưa to giọt nước bằng cây sen, bằng cán chổi, bằng cái chày tay, bằng cây thốt nốt hoặc cây dừa, cho đến từ giọt nước lớn bằng trái núi, gió thổi nước ấy cho đông đặc, nước đó có hình thái như nước đọng lên lá sen, mới kẹo đặc sệt xuống theo tuần tự. Đám mưa đó lâu lắm, không từng lạnh ráo một lần nào, lâu chừng một kappa dứt hột mưa, khối nước đọng cao đến cõi trời Phạm-Thiên. Hễ chi gió thổi cho nước rặc xuống tới chỗ Phạm-Thiên thì thành cõi Phạm-Thiên, rặc tới chỗ Lục-Dục thiên thì thành cõi Lục-Dục thiên, rặc hạ xuống đến chỗ nào núi, châu, cồn, biển thì thành núi châu, cồn, biển v.v... pháp tạo tác thế gian trong khi trước có trạng thái thế nào, pháp tạo tác sau cũng như thế ấy, không sai khác mấy.

Khi nước rặc xuống tới chỗ vừa thành châu, thì bọt nước đó có vi ngọt đóng thành đất, đất được thành lên đó nổi trên mặt nước, như lá sen nổi trên mặt nước vậy, hoặc như sữa nóng chảy trên mặt nước.

Trái đất trong buổi đầu có vị ngon và màu sắc tốt tươi, mùi thơm lạ thường, ngon ngọt như sữa trong trộn lẫn với mật ong hoặc cơm sữa (Madhupāyāsa).

Sự cấu khởi quả đất, thì chỗ Bồ-Đoàn sanh trước, có một cụm sen mọc lên làm hiện tượng đầu tiên (Pubba nimitta).

Chỗ Bồ-Đoàn nếu có một vị Phật thành đạo trong kappa ấy thì sen chỉ trổ một cái hoa thôi (1), kiếp như thế gọi là Sāra kappa. Nếu có hai vị Phật thành đạo trong kiếp ấy thì sen trổ hai cánh hoa, kiếp như thế gọi là Maṇḍa kappa.

Nếu có ba vị Phật thành đạo trong kiếp ấy, thì sen trổ ba cái hoa, kiếp như thế gọi là Vara kappa.

Nếu có bốn vị Phật thành đạo trong kiếp ấy, thì sen trổ bốn cái hoa, kiếp như thế gọi là Saramaṇḍa kappa.

Nếu có năm vị Phật thành đạo trong kiếp ấy, thì sen trổ năm cái hoa, kiếp như thế gọi là Bhadda kappa.

Nếu không có vị Phật nào thành đạo trong kiếp ấy, thì chẳng có sen mọc làm tiền hiện tượng, kiếp như thế gọi là Suñña kappa.

Hoa sen trổ một, hai, ba, bốn hoặc năm cái cũng đều mọc chung một cuống như chùm bông Kaṇṇikā vậy.

Thời ấy có lắm trời Phạm-Thiên giáng xuống, nhiều kẻ lẹ tính thấy đất có vị ngon, bèn nghĩ rằng: ở cái nầy là gì ư? Liền lấy tay quẹt lấy đất ấy rồi nếm thử xem, vị đất liền vào các thần kinh dành để hưởng thọ vị vật thực, sự mong mỏi trong vị ngon đã phát sanh đến chúng sanh ấy, các chúng sanh khác bắc chước theo rủ nhau đưa ngón tay trỏ vệt đất nếm thử xem, vị ngon của đất cũng thấm nhuần khắp thân thể của những chúng sanh ấy.



Kế đó các sanh vật ấy cứ cạy đất, vắt từng vắt mà ăn. Khi các vị Phạm-Thiên ham ăn đất có vị ngon thì ánh sáng chiếu diệu nơi thân tiền tiêu mất đi, sự tối mờ phát sanh lên, các sanh vật ấy khi thấy tối thì khiếp sợ cả.

Liền đó vừng mặt trời có chu vi 50 do-tuần, tức thì phát sanh lên, đặng tiêu trừ sự sợ hãi về đêm tối của chúng sanh, khi các sanh vật ấy thấy vừng mặt trời thì vui mừng cùng nhau gọi: Mặt trời! Mặt trời (Suriya)!

Mặt trời chói sáng trong ban ngày rồi lại mất, chúng sanh ấy cũng phát sanh sự kinh hải lên nữa, nói với nhau rằng chúng mình được ánh sáng rồi lại bị mất đi, chúng mình sẽ được ánh sáng gì nữa ư?

Liền đó vừng mặt trăng có chu-vi 49 do-tuần tức thì phát sanh lên, chúng sanh ấy thấy mặt trăng thì vui mừng cùng nhau gọi mặt trăng (Canda).

Khi có mặt trời, mặt trăng rõ rệt rồi, các tinh tú cũng sanh lên, thì giờ, ngày và đêm cũng phân định, một tháng và nữa tháng cũng phát sanh, mùa và năm cũng phát sanh, núi Tu-di, núi-Hy-Mã, núi Sa-Bà, Tứ-Đại châu sông biển cũng phát sanh rõ rệt trong ngày trăng tròn tháng Phagguṇa không trước không sau, như có Pāli chỉ rõ trong bộ Visuddhimagga ở đoạn núi Abhiññā rằng:

Te ca kho apubbam acarimaṃ phagguṃa puṇṇa mī divaseyena pātubbavanti.

Khi chúng sanh ấy ăn đất có vị ngon, lấy đất làm vật thực, thì ở yên một thời gian khá lâu, sự mập mạnh trong thân thể của chúng sanh ấy cũng phát sanh đầy đủ, màu da cũng phát sanh, rõ rệt, có nhóm màu da tốt, có nhóm màu da xấu, các chúng sanh có màu sắc tốt chê chúng sanh có màu sắc xấu rằng: Chúng mình có sắc thân xinh đẹp hơn chúng nó, chúng ta khá hơn và cao thượng hơn, chúng sanh ấy có màu sắc xấu hơn chúng ta, vậy chúng ta chẳng nên tôn trọng lễ độ với chúng sanh ấy? Khi những chúng sanh đó có ngã chấp và có sự khinh bỉ làm trợ nhân, thì đất có vị ngon để ăn cũng bị tiêu họai hết, đến khi vị ngon của đất mất rồi, thì Pappa taka (cái mày của đất) liền phát sanh lên. Cái mày của đất có hình dạng như một thứ nấm, màu sắc như toàn sữa hoặc bơ (Sappi) cũng giống như sữa cục (Navanīta) có vị ngon như mật ong trộn lẫn với con ong non.

Kế đó dây Padā mọc lên có vị ngon, chúng sanh ấy cùng nhau lấy dây Padā làm vật thực. Ở yên một thời gian lâu, khi chúng sanh ăn dây Padā thì sự tráng kiện thân thể cũng phát sanh tột độ, màu sắc càng khác nhau, chúng sanh ấy lại ngã chấp và khinh rẽ nhau nhiều hơn trước nữa, dây Padā cũng tiêu hoại mất hết.

Lúa Sālī tự chín và lúa không trấu, không cám, trắng tốt, có mùi thơm, trổ trái ra từng chùm, phát sanh dầy đẫy, chúng sanh rũ nhau lấy lúa Sālī ngay chỗ nào mà ăn buổi sáng, đến buổi chiều, lúa cũng mọc lên ngay chỗ ấy, cùng nhau lấy ăn nữa khỏi khổ nhọc phải đi kiếm nơi khác. Từ đấy chúng sanh dùng lúa Sālī tự chín làm vật thực. Ở yên một thời gian khá lâu, chúng sanh nhờ ăn lúa ấy nên sự tráng kiện của thân thể cũng phát sanh tột độ, cả màu sắc cũng sai biệt nhau càng rõ rệt. Các mụt ghẻ cũng bể ra thành khiếu nhỏ, khiếu lớn đặng bài tiết nước. Thân xác và nam tướng mạo, nữ tướng mạo cũng phát sanh rõ rệt. Nhóm nữ nhìn xem nhóm nam, nhóm nam nhìn xem nhóm nữ luôn khi, lòng luyến ái bèn phát khởi lên, sự nóng nảy bởi lòng luyến ái cũng tập trung trong thân thể. Kể từ khi đó chúng sanh bắt đầu gieo dâm với nhau, bởi có tâm luyến ái (Rāga) là trợ nhân. Thời ấy các chúng sanh đang giao cấu, có kẻ khác lại chưởi mắng các chúng sanh đang dâm-dục đó, lấy đất hoặc các vật khác mà ném. Khi chúng sanh đã nặng tình trong sự dâm-dục rồi, thì rủ nhau làm nhà để che dấu sự giao hiệp từ lúc ấy.

Trong thời gian sau lại có chúng sanh lười biếng mới nghĩ như vầy: Ôi! ta lấy lúa sáng thì ăn trong buổi sáng, đi lấy buổi chiều thì ăn trong buổi chiều, thật đấy là cả một sự khó khăn lắm vậy. Thôi ta hãy đi lấy lúa để dành ăn trong buổi sáng, và lấy luôn để dành ăn chiều nữa mới tiện.

Có một chúng sanh vào gặp người ấy rủ rằng: Nầy bạn, hãy cùng tôi đi lấy lúa Sālī về ăn.

Chúng sanh đó đáp: Thôi khỏi, tôi lấy về ăn đầy đủ rồi.

Người ầy khi nghe thì cảm thấy có phần giản tiện, nên cũng bắt chước theo, đi lấy lúa Sālī về để dành ăn hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày hoặc nhiều hơn nữa.

Đến khi chúng sanh cùng nhau bắt đầu ăn lúa Sālī đã lấy về cắt như thế, thì vỏ trấu và cám bao bọc hột gạo cũng phát sanh. Đến đỗi chỗ lấy đó lúa cũng thôi, không mọc nữa.

Khi ấy những chúng sanh hội họp và than thở rằng: Nầy chúng mình ơi! Pháp thấp hèn đã phát sanh đến chúng ta rồi, pháp thấp-thói xấu xa đã phát sanh đến chúng ta rồi. Lúc trước kia chúng ta sanh do tâm thiền định, có phỉ lạc là vật thực hào quang chói từ trong thân túa ra phi hành theo hằng không được dễ dàng như ý muốn. Ngày nay đến đổi lúa Sālī/ cũng có trấu và các chỗ lấy lúa nó cũng thôi mọc lại nữa, bởi cớ ác pháp đã phát sanh đến ta rồi. Nếu thế thì chúng ta nên chia lúa Sālī và chia phần đất để trồng lúa. Kể từ đó chúng sanh rủ nhau chia lúa Sālī, đóng cọc phân ranh riêng cho mỗi người.

Thời ấy có một chúng sanh là hạng thấp kém, xấu xa; lén dấu phần lúa phát sanh của mình, đi trộm cắp của kẻ khác về ăn. Chúng sanh khác bắt người ấy và rầy mắng rằng: Ô! người làm nghiệp xấu xa lắm. Ngươi chẳng nên dấu phần lợi của mình, rồi trộm phần của kẻ khác về mà ăn. Ngươi đừng làm như thế nầy nữa. Về sau người ấy cũng cứ trộm hai, ba lần như cũ. Các kẻ khác cũng bắt được và mắng rầy đủ điều, có kẻ tát tay bằng bàn tay hoặc đánh bằng cây.

Trong khi ấy sự trộm cắp phát rõ rệt, sự chê bai cũng phát sanh rõ rệt. Trong sự nói dối, sự thiết lập uy thế cũng phát sanh rõ rệt thế gian nầy.

Kinh Dīgha nikaya ở bài tụng Aggañña dạy rằng: Lúc Đức Thượng-Sư A-La-Hán Chánh-Đẳng Chánh-Giác an ngự trong chùa Kiến-Sơ (Pubba rama), có diễn giải cho hai ông sadi như vầy: Athakho te vāsettho sattā sanni patimsu sannipatitvā anuthanimsu pāpaka bho dhammā sattesu pātubhūtā yatra hi nāma adinnādānaṃ. Paññāyissati garaha Paññāyissati musāvādo paññāyissati dandā dānaṃ Paññāyissati yannūna mayaṃ ekaṃ sattaṃ sammaneyy āma yo no sammākhīyitabbaṃ khīyeyya sammāgarahi-tabbaṃ garaheyya sammā pabbā jetabbaṃ pabbājeyya mayaṃ panassa sālīnaṃ bhagaṃ anuppadassāmāti athakho te vāsettho sattā v.v...

Nghĩa là: Nầy VāsetthaBhūra Dvāja, khi ấy những chúng sanh tập họp lại mới than thở rằng: Ô! ác pháp cả thảy đã phát sanh đến chúng ta rõ rệt rồi, bởi sự trộm cắp, sự hủy báng cũng phát sanh rõ rệt, nói lời giả dối cũng phát sanh rõ rệt, sự thiết lập uy thế cũng phát sanh rõ rệt. Nếu vậy chúng ta nên đề cử một chúng sanh cho làm người khiển trách, những chúng sanh đáng khiển trách, hiệp theo duyên cớ, cho hủy báng, những kẻ đáng hủy báng hiệp theo duyên cớ, cho tẩn xuất những người đáng đuổi ra đúng theo duyên cớ, làm giúp việc cho chúng ta; về phần chúng ta thì nên hiến số lúa Sālī cho người ấy.

Nầy VāsetthaBhurā Dvāja, chúng sanh ấy vào kiếm người có sắc thân xinh đẹp, đáng nhìn xem, đáng ngưỡng mộ, có chức quyền to lớn, tức là đức Bồ-Tát.

Khi vào đến nói như vầy: Thưa Ngài, Ngài hãy khiển trách chúng sanh đáng khiển trách hiệp theo duyên cớ, hãy hủy báng chúng sanh đáng hủy báng hiệp theo duyên cớ, hãy tẩn xuất chúng sanh đáng đuổi ra theo duyên cớ, thì chúng tôi sẽ hiến phần lúa Sālī cho Ngài. Đức Bồ-Tát nhận lời với chúng sanh ấy rằng: Tốt! Rồi kể từ đó Ngài khiển trách các chúng sanh đáng khiển trách, hủy báng các chúng sanh đáng hủy báng, hoặc đuổi ra theo duyên cớ. Tất cả chúng sanh ấy đều hiến phần lúa Sālī cho Bồ-Tát.

Toàn chúng sanh tôn xưng Đức Bồ-Tát đó là: "Mahā sammatā" vậy. Bởi có câu trích giải rằng: Mahājana sammatoti: Mahā sammato (Chúng sanh nào) mà đại-chúng tôn xưng rồi (chúng sanh ấy) gọi là Mahā Sammati: Đại-Tôn hoặc Đại-vương, nghĩa là người mà phần đông tôn vương được phát sanh từ lúc ấy.

Có nhóm chúng sanh gọi đức Bồ-Tát bằng Hattiya: Vua bởi Đức Bồ-Tát là chủ của tất cả ruộng, do có câu trích giải rằng: Khettānaṃ adhipatīti Hattiyo (Chúng sanh nào) là chủ của tất cả ruộng (chúng sanh ấy) gọi là hattiya (vua), là đấng làm chủ đất nước có từ khi đó.

Có nhóm chúng sanh khác gọi Bồ-Tát là Rājā: Vương, thủ lãnh trong quốc-độ, bởi vì Bồ-Tát làm cho chúng sanh được mãn nguyện, đúng theo pháp, có câu trích giải rằng: Dhammenaparesam ranjetīti: Raja (chúng sanh nào) làm cho tất cả người khác mãn nguyện bằng pháp (chúng sanh ấy) gọi là Rājā: Người làm cho các chúng sanh khác được mãn nguyện bằng pháp. Tiếng rājā có từ lúc ấy.

Câu chuyện nầy dứt vắn tắt chỉ có thế.

Kể từ lúc ấy, cõi thế cứ có sự tiến triển và không tiến triển, xoay vần lên xuống nhiều lần nhiều lượt. Đây sẽ dẫn sự xoay vần lên xuống đó lại giảng giải theo trong bộ Dīgha nikaya ở bài kinh Cakka vatti như đây:

Thuở nọ Đức Phật Chánh-Giác an ngự trong rừng Mātulā nơi xứ Māgadha.

Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết dạy chư Tỳ-khưu rằng: Bhūta pubbam bhikkhave rājā dalhanemi nāma ahosi cakkavatti dhammiko dhammarājā chāturanto vijjitāvī janapadatthā vavikayappatto sattaratana sammannāgato. Tassimāni satta ratanāmi v.v...

Nghĩa là: Nầy chư Tỳ-khưu! Thuở đời quá khứ có một đức vua tên Dalhanemi làm vua Chuyển-Luân-Vương. Ngài là vị vua hợp pháp làm lớn trên quả đất có bốn biển là nơi biên cương cuối cùng. Là vua thắng trận, ngài có thần dân hùng mạnh, ngài đầy đủ 7 thứ châu báu. Đức vua Dalhanemi cai trị đất nước có bốn biển làm ranh giới, hợp pháp luôn khi, không cần dùng uy-quyền, chẳng cần dùng khí giới.

Đến thời gian trôi qua nhiều năm, nhiều ngàn năm, vua Dalhanemi mới phán với người cận thần rằng: Nếu người thấy bánh xe báu mất khỏi chỗ giờ nào, thì hãy báo tin cho trẫm trong giờ ấy. Đến thời gian lâu hàng ngàn năm về sau người ấy thấy cái xe báu lìa khỏi chỗ bèn vào tâu cho đức vua rõ.

Thời ấy đức vua Dalhanemi gọi hoàng tử lớn lại phán như vầy: Nầy con yêu quí của cha, nghe nói ngọc luân quí của mình đã mất rồi. Điều nầy theo cha nghe rằng: Nếu bánh xe quí báu của vua chuyển-luân nào biến mất khỏi chỗ rồi thì kế đó vị vua ấy không sống lâu nữa đâu. Còn về dục-lạc của nhơn gian cha đã thọ dụng no chán rồi. Giờ nầy là giờ cha cần sưu tầm an lạc cao quí. Nầy con yêu dấu của cha, con hãy cai trị đất nước mà có biển là biên cương ấy đi.

Còn cha sẽ cạo đầu, cạo râu, mặc y cà-sa xuất gia tu hành. Đức vua phải phủ dụ đông cung trưởng tử cho thỏa thích trong ngôi vị đế vương xong rồi, ngài ra khỏi hoàng cung, ngự vào rừng tu đạo-sĩ. Trong khi đức đạo-sĩ mới tu được 7 ngày thì cái ngọc-luân quí ấy cũng mất luôn.

Kế sau đó thị-thần vào hầu đức Tân-Quân vừa mới tức vị và tâu cho lãm tướng rằng: Kính tâu lịnh thiên-tử, xin ngài tường, cái ngọc-luân quí báu biến mất đi rồi.

Đức vua nghe xong thì có lòng buồn rầu vô hạn, mới ngự đến hầu Đức Đạo Sĩ phụ hoàng và bạch rằng: Kính bạch phụ vương rõ, cái bảo luân đã mất rồi.

Đức đạo-sĩ phán dạy con như vầy: Nầy con, nếu xe báu mất đi thì con đừng buồn, đừng tủi gì cả. Con hãy thực hành chuyển-luân pháp (Cakkabatti vatta) cho con thượng đi. Nếu con thiệt hành chơn chánh rồi, ngọc-luân có một ngàn cái căm đầy đủ bằng mọi thể cách sẽ phát sanh rõ rệt đến cho con. Hãy dọn mình cho thanh tịnh để thọ trì trai-tịnh-giới, nên ở yên trên bảo-điện trong những ngày trai tịnh.

Đức vua con bạch hỏi về pháp hành của chuyển-luân-vương thì được đạo-sĩ là phụ hoàng dạy rằng: Nầy con, nếu thế con chỉ nương theo pháp thôi, và làm lợi cho pháp, con cung kính pháp, trang trọng pháp, cúng dường pháp, kính nễ pháp, lấy pháp làm cớ, lấy pháp làm cầu, lấy pháp làm trọng, tổ chức về sự thống trị cho hiệp pháp đối với người bên trong là vợ, con, hoàng gia thân tộc, đối với bên ngoài là toàn dân, hoặc số người quy thuận, các bậc trưởng giả trong xóm, trong thôn, sa-môn, bà-la-môn và loài phi-cầm tẩu-thú.

Nầy con, chẳng nên làm điều ác trong xứ của con. Nếu người nào trong xứ của con không có tài sản, con cần cho của cải đến người ấy.

Nếu có chư sa-môn, bà-la-môn nào, ở trong xứ của con là các bậc không dễ duôi, an trú trong pháp nhẫn nhục (Khanti) và pháp dễ dạy (Soracca) con hãy nên vào kiếm các sa-môn, bà-la-môn ấy luôn khi. Nên học hỏi cho thông rõ về những nghiệp nào tội lỗi và không tội lỗi, nghiệp nào thiện và ác. Khi con nghe lời chỉ dạy của các sa-môn, bà-la-môn rồi, con cần lánh xa nghiệp ác, và tu trì thiện nghiệp.

Nầy con, đây là pháp hành cao thượng của vua chuyển-luân-thánh-vương.

Đức vua con nghe lời giáo huấn của đạo-sĩ cha rồi, cố gắng thực hành pháp chuyển-luân-vương cao thượng ấy. Dọn mình thanh-khiết để thọ trì bát-quan-trai giới, ngài an ngự trên bảo điện trong những ngày trai tịnh.

Khi ấy cái bánh xe báu có cả ngàn cái căm cũng phát sanh lên, vua thấy rõ rệt bèn nghĩ rằng: Bánh xe báu phát sanh đến vua nào, thì vua ấy là chuyển-luân-vương. Ồ! Vậy ta là vua chuyển-luân-vương rồi đây!

Khi ấy đức vua rời khỏi chỗ ngự, choàng y phục chỉnh tề, tay trái cầm cái bình bằng vàng, tay mặt phủ lên bánh xe báu và chú nguyện rằng: Xin cho xe báu tiến hành vĩnh-cữu, xin cho xe báu có sự toàn thắng, khi ấy xe báu bay nổi đi đến hướng đông, vua chuyển-luân cũng nổi bổng theo bánh xe báu ấy, luôn cả quân binh. Nếu bánh xe báu để trú nơi quốc độ nào thì vua đóng đô tại đó.

Các ông nghịch vương ở trong hướng đông, thảy đều vào hầu đức vua chuyển-luân và tâu rằng: Tâu Đại-vương, đất nước của hạ thần là đất nước của Đại-vương, xin Đại-vương nhận và dạy dỗ cho.

Vua chuyển-luân bèn dạy rằng: Các người chẳng nên sát sanh, chẳng nên trộm cắp, chẳng nên tà dâm, chẳng nên nói dối, chẳng nên uống rượu và các chất say, trái lại hãy dùng các vật nên dùng.

Kế sau đó xe báu bổng lên, bay đi đến các hướng Nam, Tây và Bắc. Đức vua cũng bay bổng theo như hành trình trước. Ngài thắng kẻ nghịch trên toàn cõi, có biển làm ranh giới cho an trú trong ngũ giới cả. Rồi ngài ngự trở về hoàng cung. Xe báu đến trú trong chỗ tòa phân xử gần hoàng-thành. Xe trú yên dường như gảy trục không chạy nữa và chiếu sáng làm cho cả hoàng thành rực rỡ.

Đức vua Chuyển-Luân nầy, đến già cũng trao ngôi cho hoàng tử đông cung theo hành trình phong tục của cha, được 6 vị vua sau cũng làm theo qui cũ ấy.

Đến đời vua thứ 7, không làm theo phong qui ấy cho nên xe báu chẳng phát sanh đến đức vua đó. Vì ngài dạy dân theo tri kiến kém cõi của mình, trong đất nước vạn-dân không được an vui, tiến hóa như chư Tiên-Đế ngày xưa. Lúc đó các quan Đại-thần khâm thiên, kinh-tượng thủ hộ và các ngươi nuôi mạng bằng phù phép (Manta/) đều hội họp nhau và phục tấu với vua rằng: Kính tâu Đại-vương, bá tánh không được tiến hóa như trong thời minh trị của chư Tiên-Đế là bậc thực hành chuyển-luân-vương pháp cao thượng. Tâu Đại-vương, quần thần toàn là người thông-thuộc chuyển-luân-vương pháp, xin Đại-vương hỏi chúng hạ thần đi, chúng hạ thần sẽ giàu đáp dâng cho ngài.

Khi ấy đức vua hỏi pháp hành của Chuyển-Luân-Vương. Họ cũng giải đáp hiến cho.

Khi đức vua nghe lời của các vị ấy giải bày, thì ngài chuẩn bị tổ chức thống trị hợp theo vương-pháp trở lại. Song ngài lại không bố thí của cải đến cho mọi người nghèo, thế nên sự nghèo túng càng thêm lên. Khi sự túng thiếu nhiều thì có người lấy tài sản của người khác: gọi là trộm cắp. quân lính bắt được người ấy dẫn đến vua và tâu rõ việc.

Đức vua phán hỏi: Ngươi trộm của người ta phải không?

- Tâu Đại-vương, hạ thần có trộm thiệt.

- Bởi sao mà ngươi trộm?

- Sở dĩ hạ thần phải trộm là bởi không có vật chi để nuôi mạng sống.

Liền đó đức vua bố thí của cải đến người ấy và ngài dặn rằng: Người hãy lấy của cải đi tiêu dùng và phụng dưỡng cha mẹ, vơ con và hãy làm phước cúng dường đến sa-môn, bà-la-môn.

Người ấy tuân làm theo lời vua.

Về sau lại, phần đông người nghe tin vua bố thí cho kẻ trộm như thế bèn rủ nhau ăn trộm của người ta, càng nhiều thêm lên. Ác nghiệp cũng khởi sanh trong thế gian càng nhiều thêm kể từ đó.

Kế sau có kẻ trộm, quân lính bắt nạp cho vua. Đức vua phán hỏi thì nó trình bày như kẻ trộm trước. Khi ấy đức vua nghĩ rằng: Nếu ta cứ cho của cải đến kẻ trộm nầy nữa về sau chắc hẳn sự trộm cắp sẽ đầy dẫy trong thế gian, chi bằng ta phải răn trị bằng lối cắt đầu bọn trộm cướp. Đức vua bèn phán thị thần rằng: Các khanh hãy trói xếp cánh người nầy cho chặt, rồi cạo đầu cho sạch, đánh trống dẫn đi khắp các nẽo đường, xong đem ra cửa nam môn mà cắt đầu đi. Quân lính làm theo lệnh nhà vua. Nhiều người nghe tin rằng Đức vua cho cắt đầu kẻ trộm như thế thì rủ nhau tạo khí cụ rất bén, rồi dẫn nhau đi cướp của, giết người trong thôn xóm, châu thành, người qua đường v.v... đoạt lấy của cải, rồi chém giết tài gia nữa. Sự sát sanh khởi đầu trong thế gian từ lúc đó.

Trong khi đức vua không bố thí tài sản cho dân nghèo thì sự trộm cắp có nhiều, sự sát sanh cũng thêm nhiều nữa.

Kế đó lại có một người trộm, quân lính bắt đem nạp cho vua. Đức vua phán hỏi như trước. Nó không dám khai thật vì sợ vua giết, nên nói dối không trộm cắp bao giờ cả. Sự nói dối đã khởi đầu phát sanh trong thế gian. Hễ khi sự nói dối có rồi thì bốn điều hạnh phúc là: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh của chúng sanh phải sụt xuống còn tám vạn năm. Qua một thời gian lâu, bị giảm xuống còn bốn vạn năm. Con cháu của các người bốn vạn tuổi đó lại có người trộm cắp. Nhiều người ghét kẻ gian nên đi tâu vua bằng lời đâm thọc cho vua nghe đặng bắt kẻ trộm ấy. Lời nói lưỡng thiệt cũng phát sanh rõ rệt trong thế gian. Con cháu của nhóm người hai vạn tuổi do đó phải bị giảm xuống còn một vạn năm.

Trong số người tuổi thọ một vạn, có kẻ sắc thân đẹp, có kẻ sắc thân xấu xí. Người thân hình xấu lại thương kẻ có sắc thân xinh đẹp, cho nên hành động tà với con vợ kẻ khác. Sự tà dâm phát khởi lên trong thế gian kể từ đó.

Con cháu của người một vạn tuổi cũng bị giảm xuống còn năm ngàn năm. Trong khi tuổi thọ nhơn loại còn năm ngàn tuổi, thì có hai ác pháp là: ác ngữ (Pharusavācā/) và vô ích ngữ (Samphappalāpa) cũng phát sanh lên.

Con cháu của người năm ngàn tuổi cũng bị giảm xuống còn hai ngàn năm trăm năm. Có hai ác pháp là: Liếc xem của người hoặc tham (Abhijjhā) và hủy hoại kẻ khác hoặc sân (Abyāpāda) cũng phát sanh lên trong thế gian kể từ đó.

Con cháu của người hai ngàn năm trăm tuổi cũng bị giảm xuống còn một ngàn năm. Có một ác pháp là: Tà-kiến (Micchā diṭṭhi) cũng phát sanh lên trong cõi người từ khi đó.


KHETTA ←Kappa Kathā→ THẬP ÁC


A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung

© www.tudieu.de