Back
Sắc Pháp phân tích theo 11 khía cạnh Vì các Sắc Pháp có hình tướng và tính chất không đồng nên được phân thành các loại sau:
Sắc Rõ
(
Nipphannarūpa
): Từ Sắc Ðất đến Sắc Vật Thực gồm 18 Sắc gọi là Sắc Rõ có nghĩa là rõ rệt, cũng gọi là chơn tướng, hữu trạng thái, hữu nhân sinh thành tựu vì phần chánh trội hơn. Ðược Tuệ Quán dùng làm cảnh để niệm thân trong thân. 10 Sắc pháp còn lại được gọi là
Sắc Không Rõ
(
Aniphanna-rūpa
) hay phần phụ thuộc, không hiện bày rõ rệt.
Sắc Nội
(
Ajjhattikarūpa
): là năm loại Sắc Thần Kinh (Tịnh Sắc,
Pasādarūpa
), chúng rất cần thiết đối với Ngũ song thức, nếu không có chúng thì Ngũ song thức không thể ghi nhận được Sắc cảnh Giới. 23 Sắc còn lại gọi là
Sắc Ngoại
(
Bāhirarūpa
).
Sắc Hữu Vật
(
Vatthurūpa
): hay Sở Y Sắc, bao gồm Sắc Thần Kinh và Sắc Ý Vật. Là có vật hiện bày. Sáu Sắc có vật chất hiện bày là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tim. 22 Sắc còn lại gọi là
Sắc Phi Vật
, Phi Sở Y Sắc hay Sắc vô tri (
Avatthurūpa
) vì thiếu vật tiêu chuẩn thí dụ như nam căn hay nữ căn chỉ là thái độ, tính tình nên chưa đủ tiêu chuẩn cho Sắc.
Sắc Môn
(
Dvārarūpa
): Là loại Sắc làm nhân hay làm dịp cho tâm khách quan sanh ra. Gồm Sắc Thần Kinh và Sắc Biểu Tri. Sắc Thần Kinh làm nhân sanh cho lộ ngũ môn nên được gọi là sanh môn (
Upapatthidvāsa
) chúng chiếm phần quan trọng trong Môn Hiệp Ðồng. Hai Sắc Biểu Tri còn được gọi là Thân Môn và Khẩu Môn, vì sự nói và thân hành động đều do tâm điều khiển để tạo ra Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp. Nhờ vào Sắc Biểu Tri mà trạng thái của tâm được biểu lộ ra ngoài nên gọi là sắc Môn như người ở trong nhà muốn đi ra ngoài phải nhờ cửa mà ra. 21 Sắc còn lại được gọi là
Sắc Phi Môn
(
Advārarūpa
).
Sắc Quyền
(
Indriyarūpa
): Hay Căn Sắc, là Sắc có nhiệm vụ hạn chế trong phạm vi quyền lực và bổn phận của mình. Sắc Quyền gồm có 8 Sắc Pháp sau: Năm Sắc Thần Kinh (Tịnh Sắc) chỉ có quyền hạn đối với ngũ song thức mà thôi. Thí dụ Thần Kinh Nhãn hạn chế Nhãn thức trong phạm vi thấy mà thôi, nếu không thì Tâm Nhãn Thức không sanh lên được. Hai Sắc Trạng Thái (
Sắc Tính
) Nam, Nữ hạn chế các bộ phận thân thể, hành động, nói năng, hình tướng, tánh nết, ... để sự phân biệt nam, nữ được rõ ràng. Sắc Mạng Quyền hạn chế cho thân thể không hư hoại, hạn chế cho vật thực tiêu hóa, cho cơ thể được bảo tồn và Sắc Nghiệp được tròn đủ 51 sát na. Ngoài tám Sắc kể trên, 20 Sắc còn lại được gọi là
Sắc Phi Quyền
hay Phi Căn Sắc (
Anindriyarūpa
).
Sắc Thô
(
Olārikarūpa
): gồm 12 Sắc là: 5 Sắc Thần Kinh (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và 7 Sắc Cảnh Giới (Sắc, Thinh, Khí, Vị và Xúc:
Ðất, Lửa và Gió
) hiện bày rõ rệt. Sắc Thô còn được gọi là Sắc Chạm Nhau (Hữu Ðối Sắc,
Sappatigharūpa
) vì Sắc Thần Kinh và Sắc Cảnh Giới cần phải xúc chạm hay đối chiếu với nhau để Tâm Thức sinh khởi, như Thần kinh Nhãn cần có Cảnh Sắc, Thần Kinh Nhĩ đối chiếu với Cảnh Thinh, ...
Sắc Tế
(
Sukkhumarūpa
): Ngoài 12 Sắc Thô vừa kể trên, 16 Sắc còn lại được gọi là Sắc Tế. Là những Sắc không rõ ràng. Sắc Tế còn được gọi là Sắc Không Chạm Nhau (Phi Hữu Ðối Sắc,
Appati-gharūpa
) vì chúng không cần nương tựa với nhau để hiện hữu.
Sắc Gần
(
Santikarūpa
): Sắc Thô còn được gọi là Sắc Gần (
Cận Sắc, Santikarūpa
) dùng làm đề mục để tu Tứ Niệm Xứ, khi tu tuệ rất dễ tỏ ngộ. Sắc Tế còn được gọi là
Sắc Xa
(
Durirūpa
) vì không hiển bày, khó mà tỏ ngộ được.
Sắc Thủ
(
Upādinnarūpa
): Hay Hữu Chấp Thọ Sắc, gồm 18 Sắc Pháp do Sắc Nghiệp sanh, do tham ái và tà kiến chấp thọ chi phối nên chấp cứng không buông bỏ do đó gọi là Sắc Thủ (
Kammajaṃ upādinnarūpaṃ = Sắc do nghiệp sanh gọi là Sắc Thủ
). Các Sắc còn lại như Sắc Tâm, Sắc Trạng Thái, Sắc Vật Thực, ... được gọi là
Sắc phi Thủ
(Phi Hữu Chấp Thọ,
Anupādinnarūpa
).
Sắc Hữu Kiến
(
Sanidassanarūpa
): Hay Sắc Nhập, là chỉ có một Sắc trong Sắc Cảnh giới làm đối tượng biết cho một loại Sắc trong năm Sắc Thần Kinh, Sắc đó được gọi là Sắc Hữu Kiến. Thí dụ: Cảnh Sắc là Sắc bị thấy đối với Nhãn Môn, ngoài Cảnh Sắc Nhãn Môn Không thể biết các Sắc khác (như Cảnh Thinh hay Cảnh Vị), nên Cảnh Sắc là Sắc Hữu Kiến đối với Nhãn Môn. 27 Sắc còn lại Nhãn Môn không thể biết được nên được gọi là
Sắc Phi Hữu Kiến
(
Anidassanarūpa
).
Sắc Thâu Cảnh
(
Gocaraggāhikarūpa
): Hay Thủ Cảnh Sắc, đây chính là Sắc Thần Kinh thâu bắt Sắc Cảnh Giới. Trong năm Sắc Thần Kinh thì Thần Kinh Nhãn và Thần Kinh Nhĩ không cần đạt đến đối tượng (
không cần đến sát với cảnh
), Thần Kinh Tỷ, Thần Kinh Thiệt và Thần Kinh Thân đòi hỏi phải có sự tiếp xúc với đối tượng (
Sampattavasenā
= Cần đạt đến đối tượng). 23 Sắc còn lại gọi là
Sắc Bất Thâu Cảnh
(
Agocaraggāhikarūpa
).
Sắc Bất Ly
(
Avinibbhogarūpa
): Hay Bất Giản Biệt Sắc, gồm tám Sắc: Sắc Tứ Ðại, Sắc, Khí, Vị và Vật Thực là những loại Sắc chẳng sanh riêng rẽ hay không bao giờ xa lìa nhau nên gọi là Sắc Bất Ly. Tám Sắc Bất Ly này luôn luôn có mặt trong mỗi Sắc Pháp như Sở Hữu Biến Hành đối với Tâm trong Danh Pháp vậy. Từ vi trần đến núi cao đều có mặt bốn nguyên tố Ðất, Nước, Lửa và Gió, đồng thời cũng có bốn Sắc phụ thuộc xuất hiện là Sắc, Khí, Vị và Vật Thực dinh dưởng. Tám Sắc Bất Ly này là nguồn gốc căn bản của vật chất, được sinh khởi bởi Nghiệp, Tâm, Âm Dương và Vật thực. 20 sắc còn lại gọi là
Sắc Hữu Ly
. Sắc Bất Ly (
avinibbhogarūpa
): Ở đây gồm 8 thứ Đất, Nước, Lửa, Gió, sắc cảnh sắc, sắc cảnh khí, sắc cảnh vị và Dưỡng tố (Vật thực nội). Gọi là Bất Ly vì bất cứ ở đâu có Sắc pháp, tức vật chất nói chung, thì ở đó phải có 8 Sắc này. Theo phân tích qua A-tỳ-đàm thì sự có mặt của 8 Sắc này có thể được hiểu như là những electron, proton và neutron trong Vật lý. Theo những gì vừa trình bày ở trên về Sắc pháp thì những khái niệm vật chất trong A-tỳ-đàm cơ hồ phải hiểu khá đi rất nhiều so với những khái niệm vật chất thường tình của thế gian. Từ đó, đối với một người học A-tỳ-đàm thì trong nước luôn có lửa và trong lửa luôn có nước bởi ở đâu cũng có 8 Sắc Bất Ly. Chúng đi chung với nhau thành nhóm để làm nền tảng cho vật chất và nếu nói cụ thể một chút thì kích cỡ của mỗi nhóm Bất ly có thể tương đương với một điện tử (electron).>>
VI DIỆU PHÁP - Giảng Giải (www.budsas.org)
Xem thêm
Phân loại Sắc Pháp (VDP Sơ Cấp - TK Giác Giới)